9 điều mà giáo viên nên biết về công việc giảng dạy
Chúng ta thường có bằng chứng về những gì diễn ra trong lớp học nhưng có bao nhiêu giáo viên có thể nắm chắc được điều đó? Nhà giáo dục Dylan Wiliam đã thu thập ý kiến từ một số nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới và liệt kê những thông tin thiết yếu cho giáo viên khi mới ra trường.
Chúng ta thường có bằng chứng về những gì diễn ra trong lớp học nhưng có bao nhiêu giáo viên có thể nắm chắc được điều đó? Nhà giáo dục Dylan Wiliam đã thu thập ý kiến từ một số nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới và liệt kê những thông tin thiết yếu cho giáo viên khi mới ra trường.
Tôi chưa bao giờ được đào tạo để trở thành một giáo viên. Tôi đã xin tham gia khóa học để cấp chứng chỉ giảng dạy (PGCE) tại trường Đại học London, nhưng sau vài tháng chờ đợi, với một khoản nợ và không có nơi nào để sống, tôi đã nhận công việc đầu tiên ở một trường thực hành nghề tư thục – thời đó người ta gọi là “lò luyện thi”.
Tôi đã học được rất ít về thực tế của việc giảng dạy. Nhưng khi nhìn lại, tôi có thể thấy rằng, ở vị trí một giáo viên không chuyên, tôi đã rất may mắn khi được làm việc với các nhóm học sinh năng động – nói cách khác, tôi có cơ hội khám phá cách học sinh học tập trong điều kiện gần như lý tưởng.
Một năm sau, tôi nhận được công việc giảng dạy thực sự đầu tiên của mình tại trường Christopher Wren, một trường nam sinh ở White City Estate, phía Tây London. Tôi lại may mắn một lần nữa, nhưng vì một lý do rất khác.
“Wren”, vào thời điểm đó là một thách thức. Tôi bắt đầu làm việc thay cho vị trí một giáo viên dạy môn kinh doanh. Giáo viên đó đã nghỉ việc mà không rõ lí do.
Tôi đã may mắn vì mỗi giáo viên đều cố gắng duy trì trật tự và quan trọng hơn là họ sẵn sàng thừa nhận những khó khăn vừa trải qua trong ngày.
Chục năm sau, khi tôi quay lại tham gia khóa học PGCE, tôi nhận thấy rằng tôi không phải là một ví dụ đơn lẻ. Hóa ra những giáo viên đã trải qua việc giảng dạy trên thực tế sẽ xử lí tốt hơn khi rơi vào một môi trường “khắc nghiệt”, bởi vì đội ngũ nhân viên nhà trường có xu hướng ủng hộ nhiều hơn khi mọi người đều gặp khó khăn.
Kĩ năng dạy học của tôi đã tiến bộ nhanh chóng ở Wren và rất nhiều điều tôi chỉ có thể học được qua thực tiễn. Tuy nhiên, tôi biết một số điều sẽ thực sự hữu ích nếu có ai đó chỉ bảo tôi khi tôi bắt đầu đi dạy.
Phần lớn trong số đó là những điều mà tôi không biết cách đây 40 năm. Một số điều tôi có thể đã học được khi hoàn thành PGCE (tôi không chắc lắm về vấn đề này). Một số điều tôi biết nhưng không làm được (khoảng cách từ lí thuyết đến thực tiễn).
Vì vậy, sau đây, tôi đề xuất danh mục 9 điều mà mỗi giáo viên nên biết:
- Không ai quan tâm bạn hiểu biết đến đâu cho đến khi họ biết bạn tận tâm thế nào
Câu này thường được gán cho là của Theodore Roosevelt, mặc dù nó không xuất hiện trong bất kỳ bài viết hay bài phát biểu nào của ông được ghi lại. Bất kể nguồn gốc thế nào, nó đã thâu tóm được một điểm mấu chốt trong dạy học. Dạy học là dạy về các mối quan hệ và tốt nhất là khi chúng bao hàm sự tôn trọng.
Khi tôi tham gia khóa học PGCE, nhiều giáo viên chia sẻ với tôi mối lo lắng rằng liệu học trò có tôn trọng giáo viên hay không. Tôi trả lời rằng tôi lại quan tâm hơn đến việc chúng ta có tôn trọng học sinh hay không. Khi giáo viên bắt đầu coi học sinh trong lớp là những cá nhân – đôi khi là người lớn thu nhỏ, với tất cả các quyền con người mà chúng ta gán cho người lớn, thì hệ quả kéo theo là những điều tốt đẹp.
Ý tưởng này được Sarah Lawrence-Lightfoot vô cùng tán thành. Khi được hỏi rằng thế nào là dạy tốt, Sarah đã trả lời: “Những ý tưởng được chuyển tải thông qua các mối quan hệ” (Moyers, 1989).
- Học tập là sự thay đổi trong bộ nhớ dài hạn
Nhận định này bắt nguồn từ nghiên cứu của các nhà tâm lý học John Sweller và Paul Kirschner. Họ chỉ ra rằng nếu không có gì thay đổi trong bộ nhớ dài hạn thì nghĩa là người đó chưa học được gì.
Trong sự nghiệp của mình, tôi đã liên tục ngạc nhiên bởi rất nhiều học sinh hoàn thành tốt sau mỗi đơn vị kiến thức nhưng quên luôn chúng trong sáu tuần tiếp theo. Điều này cũng lí giải cho việc rất khó đánh giá việc giảng dạy thông qua quan sát. Khi bạn cố gắng nhận ra giáo viên giỏi bằng cách quan sát họ, thực chất là bạn đang cố gắng dự đoán số lượng những điều đang diễn ra trong lớp học. Điều đó thật khó thực hiện và trên thực tế, những gì tưởng như là tốt đôi khi hóa ra lại không tốt như bạn tưởng (xem điều 3).
- Bộ nhớ là phần dư của tư tưởng
Đây là bản tóm lược những gì chúng ta biết về bộ nhớ con người được Daniel Willingham, giáo sư tâm lý học tại Đại học Virginia, đưa ra. GS. Robert Bjork, nhà tâm lý học người Mỹ, đã chỉ ra rằng mức độ hoàn thành tốt việc học tập của học sinh tỷ lệ nghịch với mức độ ghi nhớ sau vài tuần.
Học sinh nhớ những gì họ đang nghĩ đến, vì vậy nếu bạn dạy dễ quá, học sinh không phải tốn công tìm hiểu ý nghĩa của việc học nên sẽ quên nhanh.
Tôi không nói rằng giáo viên nên cố tình dạy khó hiểu mà điều quan trọng cần nhớ là trừ khi học sinh đang cố gắng hiểu được những gì họ đang học, còn nếu không, kiến thức ít khi được ghi nhớ trong thời gian dài.
- Khi học cũng cần biết quên
Nghiên cứu của Bjork mang lại một cái nhìn sâu sắc hơn đối với việc học tập: Sự quên cũng quan trọng đối với công cuộc học tập lâu dài.
Ôn lại những kiến thức cũ khiến bạn cảm thấy dễ chịu vì chúng có vẻ quen thuộc – như thể bạn biết rõ nó. Tuy nhiên, điều này dễ gây hiểu nhầm vì lý do chúng có vẻ quen thuộc là sự mới mẻ, chứ không phải là bạn đã học chúng thật cặn kẽ. Thời gian tốt nhất để ôn lại là sau khi bạn đã quên nó, khi nó không còn quen thuộc.
Chìa khóa của việc dạy học là học tập một cách khuôn sáo (các nhà tâm lý học gọi là “thực hành tập trung”) kém hiệu quả hơn việc học tập bằng sự “vỡ lẽ”, xen kẽ với các tài liệu khác (“thực hành phân tích”).
Học sinh thường không thích các hoạt động phân tích – họ thích tập trung vào một chủ đề trong một thời gian – nhưng họ nhớ nhiều hơn khi thực hành từng phần.
- Nếu bạn không biết mình đang đi đâu, bạn có thể bị lạc đường
Nhận định này là của Lawrence “Yogi” Berra – cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp – đã khát quát tầm quan trọng của việc chia sẻ kế hoạch học tập với học sinh.
Tôi thực sự xấu hổ vì cứ dạy mà không nói với học sinh về mục tiêu học tập. Rõ ràng là nếu học sinh biết mình đi đâu, họ sẽ có nhiều cơ hội đến đích.
Thật không may, mặc dù về bản chất quan điểm này rất tích cực, trong nhiều trường học ngày nay, ý tưởng bắt đầu mỗi bài học với mục tiêu học tập đã trở thành một tín điều. Giáo viên sẽ bị các nhà lãnh đạo cao cấp chỉ trích nếu mục tiêu học tập không được viết lên bảng.
Tất nhiên, học sinh nói chung sẽ biết mình sẽ đi đâu, nhưng thật sai lầm khi nghĩ rằng vì thế mà phải đánh vần mục tiêu ở đầu mỗi bài học.
- Câu trả lời của những học sinh tự tin không phải là dấu hiệu cho thấy cả lớp đã hiểu bài
Khi đi dạy, câu hỏi mà tôi thường tự đặt ra là: “Tôi có cần phải nhắc lại phần này một lần nữa hay có thể sang phần tiếp theo luôn?”
Tôi đã quyết định làm giống như phần lớn giáo viên. Tôi đưa ra một câu hỏi cho cả lớp. Thông thường, có khoảng sáu học sinh giơ tay và tôi sẽ gọi một trong số đó. Nếu em ấy trả lời đúng, tôi sẽ nói “Tốt lắm” và dạy tiếp.
Nếu bạn hỏi tôi lúc đó tôi có thực sự nghĩ rằng phản hồi của một học sinh tự tin là dấu hiệu cho thấy cả lớp đã hiểu bài không, câu trả lời của tôi là không. Nhưng không ai hỏi tôi câu hỏi đó, vì vậy các tiết học của tôi, theo lời một giáo viên, là “một nhóm thảo luận nhỏ được bao quanh bởi nhiều khán giả uể oải” (Black et al, 2003).
Lấy phản hồi từ những học sinh không giơ tay sẽ tốt hơn và hãy cố gắng làm sao để ít nhất cứ 20 phút trong quá trình giảng dạy lại lấy phản hồi từ mỗi học sinh. Bạn có thể sử dụng các hình thức như giơ tay, thẻ ABCD, bảng trắng mini… Chúng cho thấy rằng động thái tiếp theo của giáo viên là dựa trên nhu cầu học tập của cả lớp chứ không chỉ thông qua một số học sinh hay được gọi phát biểu.
- Phản hồi chỉ có ý nghĩa khi học sinh tiếp thu nó
Mục đích của phản hồi là giúp học sinh tiến bộ chứ không phải là làm xong bài tập. Bài tập chỉ đơn giản là bằng chứng của sự tiến bộ.
Tôi lấy làm hổ thẹn vì đã đi dạy bao lâu nay mà không nói với học sinh đích đến của các em.
Hậu quả trực tiếp của việc này là phản hồi do học sinh làm nhiều hơn giáo viên và điều thực sự quan trọng là học sinh làm gì với những phản hồi đó.
Nếu phản hồi làm cho học sinh tiến bộ hơn bạn mong đợi thì tốt nhưng nếu học sinh thụt lùi thì có lẽ là không. Việc học sinh phản ứng như thế nào khi nhận được phản hồi của bạn còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa hai bên, như Lawrence-Lightfoot chỉ ra (xem điều 1).
- Hoạt động nhóm hiệu quả đòi hỏi trách nhiệm của mỗi cá nhân
Là một giáo viên trẻ, tôi đồng tình với ý tưởng rằng học sinh nên làm việc theo nhóm – vì khi lớn lên, học sinh sẽ làm việc nhóm trong suốt quãng đời còn lại. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là chuẩn bị cho học sinh đón nhận điều này.
Tuy nhiên, tôi đã thất vọng vì học sinh làm việc theo nhóm thường ít hiệu quả hơn là tôi giảng hoặc họ làm việc độc lập.
Trong 30 năm qua, nghiên cứu của giáo sư tâm lý học Robert Slavin và các đồng nghiệp Roger và David Johnson, hai giáo sư về giáo dục, chỉ ra hai điều kiện tiên quyết để học tập hợp tác hiệu quả.
Thứ nhất là phải có các mục tiêu nhóm: học sinh nên làm việc theo nhóm chứ không phải chỉ ở trong một nhóm.
Thứ hai – điều kiện này khó đạt được hơn – là mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm trước nhóm về chất lượng công việc họ đóng góp. Nói cách khác, một học sinh không nỗ lực học tập sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng đạt được các mục tiêu của nhóm.
Hầu hết các nhóm học tập trong trường học được thiết lập theo kiểu hai hoặc ba học sinh làm việc cho cả nhóm – trong trường hợp đó bạn nên cho học sinh làm việc độc lập hoặc bạn giảng.
- Học sinh hiểu rõ việc học của bản thân
Tất cả các trường học đều cho phép học sinh đóng góp ý kiến về những quyết định của nhà trường. Thật không may, những quyết định đó thường chỉ liên quan đến nhà ăn và nhà vệ sinh chứ không phải là những gì xảy ra trong lớp học.
Một trong những điều tôi rất tiếc trong thời gian đi dạy là không thể đối xử với học sinh như những đối tác bình đẳng trong quá trình học tập. Từ khi không dạy toàn thời gian nữa, tôi đã có cơ hội để nghiền ngẫm kĩ điều này. Tôi đã rất ngạc nhiên trước sự hiểu biết sâu xa ở ngay cả những học sinh trẻ tuổi nhất.
Tất nhiên, quan điểm và ý kiến của học sinh không phải lúc nào cũng đúng nhưng tôi tin rằng điều quan trọng nhất cần làm để giúp họ tiến bộ là tiếp nhận phản hồi từ chính họ sinh – người học và cũng là mục tiêu phục vụ hàng đầu của chúng tôi.
Đặng Thanh Hiền dịch